Bán hàng đa cấp là một ngành được thế giới công nhận và được điều chỉnh chặt chẽ bởi pháp luật Việt Nam.
Top 100 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam
Theo những thông tin được Forbes công bố thì danh sách dựa vào 4 tiêu chí cơ bản sau:
Và danh sách này sẽ dựa theo phương pháp xếp hạng Global 2000 (Top 2000 công ty lớn nhất toàn cầu) của Forbes Mỹ đã từng xét. Khác với danh sách từng được Forbes công bố vào giữa năm nay là "50 doanh nghiệp niêm yết tốt nhất" nhấn mạnh đến hiệu quả, tăng trưởng của thương hiệu đó. Thì danh sách lần này mở rộng phạm vi các doanh nghiệp giao dịch trên UpCoM và công ty đại chúng chưa niêm yết,
Hiện trong danh sách lần này, lĩnh vực ngân hàng đang chiếm ưu thế hơn cả khi có tới 6/10 cái tên góp mặt trong danh sách top những doanh nghiệp đứng đầu. Cụ thể Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Techcombank, VPBank, MBBank là những ngân hàng hàng đầu Việt Nam trong năm 2019 này.
Thêm vào đó, một điểm thú vị khi mà nền kinh tế Việt Nam trong thập kỷ qua chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Các tập đoàn như Vingroup, Hòa Phát, Techcombank, VPBank, Trường Hải Thaco, Masan.... có vị trí khá cao trong bảng xếp hạng này.
Với đặc thù của ngành hàng thì Ngân hàng chiếm nhiều cái tên nhất trong top 100 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam lần này, bên cạnh đó là các ngành như bất động sản, dầu khí, bán lẻ. Trong danh sách, Petrolimex là quán quân về doanh thu với 8,35 tỷ USD trong khi Vietcombank quán quân về lợi nhuận sau thuế với 636 triệu USD. Với 57 tỷ USD, ngân hàng BIDV giữ vị trí quán quân về tổng tài sản và Vingroup dẫn đầu về vốn hóa với giá trị xấp xỉ 16,5 tỷ USD (theo báo cáo tài chính kiểm toán hợp nhất 2018).
Top 100 thương hiệu đại chúng lớn nhất Việt Nam
Vốn hóa các doanh nghiệp niêm yết chốt mức giá đóng cửa ngày 13.12.2019; vốn hóa doanh nghiệp chưa niêm yết xác định bằng cách lấy số cổ phần nhân với P/E trung bình của các doanh nghiệp niêm yết cùng ngành. Kế tiếp, chấm điểm các doanh nghiệp trên bốn chỉ tiêu tài chính. Tổng điểm cuối cùng xác định vị trí thứ hạng của các công ty trong danh sách. Danh sách có sự tính toán định lượng của công ty Chứng khoán Bản Việt.
Theo những chuyên gia thì trong thập kỷ tới, thị trường sẽ có nhiều sự thay đổi khi nền kinh tế thị trường phụ thuộc chủ yếu vào các doanh nghiệp tư nhân. Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, chúng ta vẫn thấy sự hiện hữu mạnh mẽ của các doanh nghiệp nhà nước, nhưng bước sang thập kỷ vừa rồi có thể thấy nhiều thương hiệu không có vốn nhà nước vươn lên để có thể cạnh tranh một vị trí trong top 100 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.
Bước sang thập niên thứ 3 này, với những tiền đề vững chắc của ngành bán lẻ hiện đại, mua sắm online thì rất có thể nhiều thương hiệu công nghệ sẽ phát triển trở thành một thương hiệu mạnh giống như thực trạng của thế giới hiện nay với những Apple, Amazon, Alibaba...
Dưới đây là danh sách top 100 công ty đại chúng lớn nhất được Forbes Việt Nam tổng hợp:
Công ty cổ phần Dịch vụ tổng hợp Sài Gòn (Savico)
Như vậy, qua bài viết hi vọng các bạn đã hiểu rõ hơn về công ty đại chúng là gì? cũng như danh sách Top 100 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Cảm ơn các bạn đã theo dõi.
Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) vừa công bố bảng xếp hạng PROFIT500 - Top 500 doanh nghiệp lợi nhuận tốt nhất Việt Nam năm 2023.
Theo đó, 10 doanh nghiệp lợi nhuận tốt nhất Việt Nam năm nay bao gồm: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam Thái Nguyên, Viettel, Vietcombank, Techcombank, Tổng công ty Thăm dò khai thác dầu khí (PVEP), BIDV, MBBank, Agribank, VPBank.
Còn 10 doanh nghiệp tư nhân lợi nhuận tốt nhất Việt Nam bao gồm: Techcombank, VPBank, ACB, Vingroup, VIB, Vinamilk, HDBank, Hòa Phát, SHB, TPBank.
Như vậy, ngành ngân hàng có tới 6 đại diện nằm trong 10 doanh nghiệp lợi nhuận tốt nhất Việt Nam và có 7 đại diện nằm trong 10 doanh nghiệp tư nhân lợi nhuận tốt nhất.
Theo Vietnam Report, dù chưa thể quay về mức cao như trước đại dịch, song so với năm trước, ROA bình quân của các doanh nghiệp PROFIT500 trong năm 2023 đã có sự cải thiện tương đối đồng đều ở cả ba khu vực kinh tế.
Trong đó, các doanh nghiệp FDI vẫn tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu ở mức 13,7%, đồng thời là mức tăng mạnh nhất giữa 3 khu vực (+2,7% so với năm 2022), cho thấy sự ổn định trong hoạt động kinh doanh và khả năng tạo lợi nhuận từ tài sản. Hai vị trí còn lại cũng không có sự xáo trộn và đều có sự gia tăng so với hai năm qua, khi doanh nghiệp khu vực Tư nhân và doanh nghiệp khu vực Nhà nước lần lượt ghi nhận tỷ lệ ROA bình quân ở mức 11,2% và 9,2%, tương ứng xếp ở vị trí thứ hai và thứ ba.
Năm 2023 cũng chứng kiến sự thay đổi đáng chú ý trong ROE bình quân của các doanh nghiệp PROFIT500. Khu vực FDI và khu vực Tư nhân thể hiện sự tăng trưởng mạnh mẽ trong hiệu suất tài chính và quản lý vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp khi lần lượt tăng 4,6% và 5,5% so với kết quả năm 2022, qua đó, ghi nhận mức cao nhất trong 5 năm trở lại đây.
Mặt khác, dù có tỷ lệ ROE bình quân tăng từ 16,5% năm ngoái lên 17,2% trong năm nay song sự cải thiện này của khu vực Nhà nước vẫn chưa rõ rệt và khá nhẹ so với hai khu vực còn lại, do đó có năm thứ hai liên tiếp đứng ở vị trí thứ ba.
Nhìn chung, bức tranh ROA và ROE bình quân của các doanh nghiệp thuộc bảng xếp hạng PROFIT500 đều có sự khởi sắc hơn so với năm 2022.
“Có thể nói, đây là nỗ lực rất lớn và xứng đáng được tôn vinh của các doanh nghiệp này trong việc tối ưu hóa các nguồn lực, nâng cao hiệu suất tài chính, qua đó tạo ra sự khác biệt đáng kể với phần còn lại của thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh chung cực kì khó khăn của giai đoạn từ đầu năm đến nay”.
Vietnam Report cho rằng, giai đoạn vừa qua đánh dấu một chặng đường khắc nghiệt của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Theo nhịp biến động kinh tế - chính trị toàn cầu, xuất khẩu yếu, hoạt động sản xuất cầm chừng và sự chững lại của nhiều thị trường từ bất động sản cho đến trái phiếu…, tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ đầu năm đến nay giảm tốc rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2023 đạt 3,72%, chỉ cao hơn giai đoạn 2020 – năm bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Covid 19 trong 13 năm trở lại đây. Trạng thái trì trệ lan rộng hầu khắp các ngành khiến sức chống chịu của doanh nghiệp bị bào mòn, lợi nhuận cũng mỏng đi đáng kể.
Theo kết quả khảo sát của Vietnam Report, tỷ lệ doanh nghiệp giữ được nhịp tăng trưởng trong nửa đầu năm nay thấp hơn so với 6 tháng đầu năm 2022, trong khi tỷ lệ doanh nghiệp ghi nhận kết quả kinh doanh không mấy khả quan lại gia tăng.
Tính đến hiện tại, khi hai phần ba khoảng thời gian của năm đã trôi qua, chưa đến một nửa số doanh nghiệp hoàn thành được trên 50% kế hoạch lợi nhuận (40,9% số doanh nghiệp - giảm mạnh so với 73,9% số doanh nghiệp ở thời điểm khảo sát cách đây một năm). Số liệu tính chung 8 tháng đầu năm 2023 của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy dưới sức ép từ cả trong và ngoài nước, 124,7 nghìn doanh nghiệp đã phải rút lui khỏi thị trường, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh bối cảnh đầy thách thức của môi trường kinh doanh.
Ở phần còn lại của năm, khi “hạ cánh mềm” dần được nhắc đến nhiều hơn để nói về bộ mặt kinh tế thế giới thay cho cụm từ “suy thoái” cách đây vài tháng, nền kinh tế Việt Nam nhen nhóm tín hiệu bớt ảm đạm và có khả năng tiến dần vào quỹ đạo phục hồi. Tuy nhiên, tốc độ chuyển trạng thái không quá nhanh do áp lực vẫn lớn và nhiều khó khăn còn tồn đọng. Về góc độ tích cực, bước sang quý III/2023, tín hiệu phục hồi tháng sau khả quan hơn tháng trước dần xuất hiện.
Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 8/2023 ước đạt 32,37 tỷ USD, tăng 7,7% so với tháng 7/2023. Chỉ số Sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 8 không chỉ tăng 2,9% so với tháng trước, mà còn tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong hai tháng đầu của quý III, Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam do S&P Global công bố liên tục ghi nhận tín hiệu tích cực. Đặc biệt, PMI tháng 8 đã đạt 50,5 điểm - đánh dấu sự phục hồi khi bật tăng trở lại lên trên ngưỡng 50 điểm sau 6 tháng, cho thấy các điều kiện kinh doanh trong ngành sản xuất đã cải thiện nhẹ. Mặc dù vậy, đánh giá tổng quan một cách thận trọng, thực tế các số liệu kinh tế về tăng trưởng GDP quý II/2023 dù khởi sắc hơn quý I song vẫn yếu, hay các báo cáo PMI theo tháng nhìn chung đều cho thấy sự phục hồi kinh tế còn chậm. Khi xét chung 8 tháng đầu năm, Chỉ số Sản xuất công nghiệp (IIP) vẫn giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu giảm 10,0%, ước đạt 227,71 tỷ USD. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng theo giá hiện hành chỉ tăng 10,0% so với cùng kỳ năm 2022, loại trừ yếu tố giá còn tăng 7,7% trong khi mức tăng tương ứng năm ngoái là 19,2% và 15,1%…
Với nhận định chung rằng dù đã có những dấu hiệu cho thấy sự chuyển mình của nền kinh tế, nhưng những dấu hiệu này chưa thực sự mạnh mẽ, hay nói cách khác, chưa đủ sức bật để đưa tình hình chuyển biến nhanh trong ngắn hạn trong khi thách thức còn rất nhiều, đa số các chuyên gia và doanh nghiệp tham gia khảo sát của Vietnam Report cho rằng triển vọng tăng trưởng kinh tế năm nay sẽ thấp hơn so với mục tiêu 6,5%. Trong đó, mức tăng trưởng từ trên 4,5% – 5% của nền kinh tế Việt Nam trong năm nay là kịch bản có tỷ lệ số doanh nghiệp lựa chọn nhiều nhất (31,8% số doanh nghiệp).
Theo Vietnam Report, sự phục hồi giữa các ngành, các doanh nghiệp cũng sẽ có sự khác biệt phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc thù riêng. Do vậy, có sự phân hóa trong kết quả khảo sát về triển vọng lợi nhuận dự kiến trong 6 tháng còn lại của năm với 6 tháng đầu. 54,6% số doanh nghiệp cho rằng lợi nhuận của mình sẽ có cải thiện nhẹ so với nửa đầu năm đã qua trong khi 4,5% số doanh nghiệp dự báo không thay đổi và 40,9% số doanh nghiệp nhận định sự phục hồi vẫn hết sức chậm chạp, chưa thể phản ánh ngay vào kết quả kinh doanh trong năm nay, và có thể trong ngắn hạn vẫn ghi nhận sự suy giảm trước khi tình hình có thể cải thiện trở lại.