Đặc Điểm Lao Động Của Cần Thơ

Đặc Điểm Lao Động Của Cần Thơ

Đặc điểm của hợp đồng lao động đó là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng của các chủ thể. Bài viết này Luật Vitam sẽ tập trung phân tích, làm rõ đặc điểm cơ bản của hợp đồng lao động.

Đối tượng của hợp đồng lao động

Căn cứ theo Điều 13 Bộ luật lao động 2019 quy định:

“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.”

Chủ thể giao kết hợp đồng lao động gồm người lao động và người sử dụng lao động.

Hợp đồng lao động thực chất là hợp đồng mua bán sức lao động giữa người lao động và người có nhu cầu sử dụng sức lao động là NSDLĐ. Tuy nhiên, đây là hợp đồng mua bán đặc biệt. Bởi sức lao động là đối tượng mua bán của hợp đồng. Đây là một loại “hàng hóa” đặc biệt. Vì vậy có thể thấy đối tượng của hợp đồng lao động chính là việc làm.

Như vậy, để nhận diện có sự tồn tại của quan hệ lao động hay không, cũng như hợp đồng đó có phải là hợp đồng lao động hay không cần xác định trong quan hệ đó hay hợp đồng đó có “yếu tố việc làm” hay không. Yếu tố về công việc được nhận biết như công việc đó được thực hiện dưới sự chỉ dẫn và dưới sự kiểm soát của phía bên kia. Công việc có sự tương tác với công việc của NLĐ khác. Công việc tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định và có tính liên tục. Hợp đồng lao động là hình thức pháp lí của quan hệ lao động. Các bên giao kết hợp đồng lao động sẽ làm phát sinh quan hệ lao động.

Những thỏa thuận trong hợp đồng lao động trong giới hạn pháp lí nhất định

Bất cứ sự thỏa thuận nào cũng phải nằm trong khuôn khổ và sự điều chỉnh của pháp luật, hợp đồng lao động cũng vậy.

Quyền của NLĐ được pháp luật lao động quy định ở mức tối thiểu và nghĩa vụ của NLĐ được quy định ở mức tối đa.

Bên cạnh những giới hạn pháp lí đã được quy định trong pháp luật lao động, những thỏa thuận của các bên trong hợp đồng lao động còn bị chi phối bởi các quy định trong thỏa ước lao động tập thể (nếu có) của doanh nghiệp.

Quan hệ lao động không chỉ bao gồm quan hệ lao động cá nhân mà còn gồm cả quan hệ lao động tập thể. Những thỏa thuận tập thể khi đã đạt được (như thỏa ước lao động tập thể) sẽ được coi như là “luật” của doanh nghiệp Vì thế, về nguyên tắc, các thỏa thuận trong hợp đồng lao động phải phù hợp với các thỏa thuận đã đạt được trong thỏa ước lao động tập thể. Bởi vậy, những thỏa thuận trong hợp đồng lao động không chỉ giới hạn trong khung pháp lí do pháp luật quy định mà còn phải phù hợp, tương thích với thỏa ước lao động tập thể cũng như quy chế hợp pháp trong đơn vị.

Vậy là Luật Vitam đã cung cấp cho các bạn nhưng thông tin về đặc điểm của hợp đồng lao động. Hi vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình tìm hiểu vấn đề này. Hẹn gặp lại các bạn ở những bài viết tiếp theo!

Nguồn lao động nước ta dồi dào và tăng nhanh, mỗi năm tăng thêm hơn 1 triệu lao động.

+ Nguồn lao động rất dồi dào; 42,53 triệu người, chiếm 51,2 % tổng số dân

+ Mỗi năm tăng thêm một triệu lao động

+ Người lao động cần cù, sáng tạo có kinh nghiệm sản xuất phong phú, tiếp thu nhanh khoa học kỉ thuật

+ Chất luợng lao động ngày càng được nâng lên, lao động có kỉ thuật ngày càng đông

+ Lực luợng lao động có trình độ cao còn ít

+ Nhiều lao động chưa qua đào tạo ( 75%)

+ Năng suất lao động vẫn còn thấp

+ Phần lớn lao động có thu nhập thấp

+ Phân công lao động XH còn chậm chuyển biến

+ Quỹ thời gian lao động chưa sử dụng hết

=> Để nâng cao chất lượng lao động và sử dụng hiệu quả nguồn lao động cần thực hiện việc phân bố lại lao động, nâng cao mặt bằng dân trí, chú trọng công tác hướng nghiệp đào tạo nghề.

16k 06/04/2023

Đề bài: Nêu đặc điểm lao động của nước ta

Nguồn lao động nước ta dồi dào và tăng nhanh, mỗi năm tăng thêm hơn 1 triệu lao động.

+ Nguồn lao động rất dồi dào; 42,53 triệu người, chiếm 51,2 % tổng số dân

+ Mỗi năm tăng thêm một triệu lao động

+ Người lao động cần cù, sáng tạo có kinh nghiệm sản xuất phong phú, tiếp thu nhanh khoa học kỉ thuật

+ Chất luợng lao động ngày càng được nâng lên, lao động có kỉ thuật ngày càng đông

+ Lực luợng lao động có trình độ cao còn ít

+ Nhiều lao động chưa qua đào tạo ( 75%)

+ Năng suất lao động vẫn còn thấp

+ Phần lớn lao động có thu nhập thấp

+ Phân công lao động XH còn chậm chuyển biến

+ Quỹ thời gian lao động chưa sử dụng hết

=> Để nâng cao chất lượng lao động và sử dụng hiệu quả nguồn lao động cần thực hiện việc phân bố lại lao động, nâng cao mặt bằng dân trí, chú trọng công tác hướng nghiệp đào tạo nghề.

(ĐCSVN) - Tình trạng bất bình đẳng là nguyên nhân chính thúc đẩy con người di chuyển nơi làm việc. Khủng hoảng tài chính toàn cầu thúc đẩy lao động di chuyển trong khu vực các nước đang phát triển ngày càng tăng nhanh và mang những đặc trưng nổi bật.

Thứ nhất, đa số lao động di chuyển từ các nước đang phát triển không có nghề nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp

Lao động di chuyển từ các nước đang phát triển chủ yếu là lao động phổ thông. Do không có chuyên môn nghề nghiệp nên lao động thường tập trung vào những lĩnh vực như xây dựng, khai mỏ, nông nghiệp và giúp vịêc gia đình...

Lao động Trung Quốc di cư sang châu Phi trong thập kỷ đầu thể kỷ XXI tăng rất nhanh, chủ yếu là nông dân, công nhân xây dựng, công nhân hầm mỏ, lao động tiểu thương...

Tuy nhiên, những nước tiếp nhận nguồn lao động này từ các nước đang phát triển có thời hạn không dài (tạm thời ký trong khoảng thời gian từ 3-5 năm) nhằm mục đích tránh những hậu quả xã hội của nhóm lao động di cư không nghề hoặc bán chuyên nghiệp để lại.

Thứ hai, lao động di chuyển tăng nhanh thể hiện ở mức tăng liên kết thị trường lao động

Singapore phát triển kinh tế dựa vào chiến lược sử dụng lao động di cư thông qua cơ chế quota và thu thuế. Từ những năm 1980s sự bùng nổ kinh tế của Malaysia và Thái Lan dẫn tới việc thiếu hụt lao động ở các nước này. Do đó, Malaysia và Thái Lan đã thực hiện chiến lược mở cửa đối với lao động di cư từ các nước khác trong khu vực. ASEAN đang tập trung phát triển một thị trường chung đối với việc di chuyển tự do người lao động và xóa bỏ yêu cầu visa từ lao động trong khu vực. Philippin là nước có số lao động di cư ra nước ngoài nhiều nhất - đó là những chuyên gia và lao động có kỹ năng, chuyên môn - di cư tới các nước khác nhau trên toàn thế giới.

Một số nhóm có chuyên môn, kỹ năng nhất định thì chỉ di cư tới một số nước. Ví dụ, lao động giúp việc gia đình chủ yếu tập trung ở Hồng Công và Saudi Arabia; lao động trong lĩnh vực nghệ thuật di cư tới Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á khác. Các chuyên gia công nghệ thông tin và y tá di cư tới Mỹ và Anh. Rõ ràng, sự chuyên môn hóa thị trường lao động làm tăng mối liên kết thị trường giữa các quốc gia trong khu vực.

Thứ ba, di cư lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ diễn ra mạnh ở những nước có tốc độ tăng trưởng nhanh

Làn sóng di cư lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ diễn ra mạnh nhất ở Trung Quốc, Campuchia và Việt Nam – những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh kể từ năm 1995. Khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách và mở cửa kinh tế (1978), đã có khoảng 130 triệu người Trung Quốc di chuyển từ nông thôn lên thành phố để tìm kiếm việc làm (chưa tính đến số di chuyển ra nước ngoài làm việc). Dòng di cư này, theo Liên hợp quốc, là lớn nhất trên thế giới, đã tiếp sức cho mức độ tăng trưởng thần kỳ của Trung Quốc, cải thiện điều kiện sống cho những người lao động nghèo đói.

Năm 1978, Trung Quốc có 283 triệu lực lượng lao động nông nghiệp, chiếm 93% tổng lực lượng lao động xã hội. Cùng với sự phát triển và cải cách kinh tế, qui mô di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố ngày càng tăng. Khác với các nước đang phát triển khác, di chuyển lao độngTrung Quốc đặc trưng bởi những xu hướng lan truyển nhanh do sự phân chia lịch sử tồn tại giữa nông thôn và thành thị của hệ thống hukou (hukou system). Thời kỳ đầu cải cách chỉ có một số lượng nhỏ lao động di cư, chủ yếu tập trung ở những lao động thủ công. Cùng với mức tăng của năng suất lao động nông nghiệp, lực lượng lao động nông nghiệp bắt đầu chuyển ra ngoài khu vực với qui mô ngày càng lớn. Đặc biệt sự bùng nổ kinh tế sau năm 1992 dẫn tới qui mô di chuyển lao động tăng rất nhanh. Tăng trưởng kinh tế ở các khu vực ven biển - nơi chủ yếu tập trung lao động công nghiệp và lao động có xu hướng xuất khẩu - thu hút ngày càng nhiều lao động nông thôn của Trung Quốc đến tìm kiếm việc làm ngoài nông nghiệp. Số lượng lao động di chuyển tăng lên từ 2 triệu lao động (1983) lên 30 triệu lao động (1990) tới 63 triệu người (1993) và 75,5 triệu người (2000). Năm 2007, lao động di chuyển lên thành phố đã chiếm tới 136 triệu người (khoảng 46,5% tổng số việc làm ở thành phố.

Thứ tư, đa số lực lượng lao động di cư là nữ

Hai thập kỷ gần đây di cư lao động nữ chiếm tỉ lệ ngày càng tăng. Theo báo cáo của Action Aid, lực lượng di cư đang có xu hướng nữ hoá, 81% lao động di cư từ Indonesia (năm 2004), 72% lao động di cư từ Philippines (năm 2006) và 60% lao động di cư từ Việt Nam (năm 2008) là lao động nữ. Do sự phát triển của ngành chế tạo và dịch vụ cũng như nhu cầu giúp việc gia đình tăng đã dẫn tới nữ hóa dòng lao động di cư của các nước đang phát triển. Di cư lao động nữ thường tập trung nhiều ở Philippin và Inđônêsia.

Từ năm 1992 đến nay, di cư lao động nữ ở Philippin chiếm tới 60-80% tổng số lao động di cư ra nước ngoài tìm việc làm. Phần lớn trong số họ làm các công việc như dịch vụ chăm sóc sức khỏe và quét dọn trong gia đình với mức lương thấp. Trong khi phụ nữ Philippin có xu hướng di cư tới khắp các nước trên thế giới, thì phụ nữ Inđônêsia chủ yếu tới các nước vùng Vịnh và Trung Đông để tìm việc làm. Đặc biệt di cư tởi Tây Á chiếm hơn 93% lao động di cư nữ của Inđônêsia. Sở dĩ nữ chiếm phần lớn trong dòng di cư lao động là do thị trường nhập khẩu ngày càng được mở rộng cho lao động nữ. Thị trường tiếp nhận lao động nữ nhiều nhất là Trung Đông, đặc biệt là Ả rập Saudi và Kwait.

Thứ năm, di cư lao động bất hợp pháp gia tăng

Mạng lưới di cư bất hợp pháp ngày càng được lựa chọn do những kênh nhập cư hợp pháp đang ngày càng bị thu hẹp. Các nước đang phát triển châu Á đều có số lượng lao động di cư bất hợp pháp cao hơn người lao động di cư hợp pháp.

Sở dĩ di cư bất hợp pháp tăng là do chính sách quản lý di cư thiếu chặt chẽ và mong muốn của các chủ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm và bóc lột lao động dễ dàng. Di cư bất hợp pháp có thể thỏa mãn nhu cầu sử dụng lao động hiệu quả, song không đảm bảo quyền lợi và điều kiện an toàn cho người lao động. Di cư bất hợp pháp từ các nước đang phát triển thường tập trung tới các quốc gia có mức thu nhập cao hơn, môi trường sống ưa thích hơn như Bắc Mỹ, Tây Âu, Pháp, Italia...

Lao động bất hợp pháp tới Thái Lan chủ yếu đến từ Myanmar làm việc trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và trong ngành chế xuất. Lao động bất hợp pháp tới Malaysia đến từ Indonesia, Philippin, Trung Quốc và Ấn Độ. Malaysia được xem là quốc gia có số lượng lao động bất hợp pháp cao (lên tới 30%) so với các nước phát triển OECD (5,0% - 20,0%). Để hạn chế số lượng lao động bất hợp pháp, chính phủ Thái Lan cho phép lao động bất hợp pháp (đến từ Campuchia, Lào và Myanmar) được đăng ký cấp phép. Hơn 700 nghìn lao động bất hợp pháp đã được cấp phép mới. Lao động bất hợp pháp của Việt Nam tới Campuchia thường kiếm được nguồn thu nhập cao hơn người bản xứ do họ làm các công việc có kỹ năng chuyên môn cao.